Bài thuốc trị chứng tâm thần không yên

Người bệnh biểu hiện nhút nhát sợ hãi, dễ kinh sợ, nằm ngồi không yên, ít ngủ hay giật mình, buồn vui thất thường. Nguyên nhân phần nhiều do kinh sợ quá mà thần chí không yên, tâm thần dao động, hồi hộp. Sợ (khủng) quá thì tổn thương thận, thận hư yếu không giao thông được với tâm khiến cho tâm hồi hộp không yên... Dưới đây là một số bài thuốc thường dùng:

Chứng tâm thần không yên “tâm kinh” mà ít ngủ hay mê: dùng bài An thần đinh chí hoàn gia giảm: phục linh 14g, phục thần 14g, viễn chí 10g, nhân sâm 12g, thạch xương bồ10g, long xỉ 14g, đơn sâm 14g. Cách dùng: Tán nhỏ làm hoàn, hoặc sắc uống. Tác dụng: trấn kinh an thần…

Viễn chí (là lá khô của cây viễn chí lá nhỏ giúp trị chứng tâm thần không yên.

Viễn chí (là lá khô của cây viễn chí lá nhỏ giúp trị chứng tâm thần không yên.

Gia giảm: Nếu tâm hay hồi hộp khó ngủ, gia táo nhân 12g, bá tử nhân 14g để trấn kinh an thần. Nếu hồi hộp nặng, trị tim hồi hộp khó ngủ, ngủ hay mơ, cơ thể suy nhược, tâm thần không yên ít ngủ hay mê, nặng ngực do đàm ứ trong, gia bán hạ 8g, trần bì 10g, trúc nhự 12g. Nếu người gầy nóng do tâm âm hư, gia huyền sâm 12g. Nếu tay chân lạnh tâm dương hư, gia hoàng kỳ 16g. Không chỉ định: người mắc chứng tâm hỏa, tâm âm hư nóng bứt rứt khó ngủ.

Chứng tâm thần không yên “tâm kinh” hồi hộp ngủ không yên: Dùng bài Trân châu mẫu hoàn: chân châu 12g, đương quy 20g, thục địa 30g, nhân sâm 12g, táo nhân 16g, bá tử nhân 20g, ngưu giác16g, trầm hương 12g, long cốt 20g, ngưu tất 14g. Cách dùng: nghiền nhỏ trộn mật làm hoàn bằng hạt ngô lấy thần sa làm áo, mỗi lần dùng 40-50 viên uống với nước kim ngân, bạc hà làm thang uống. Công dụng: Tư dưỡng âm huyết, tiềm dương, an thần… Trị tâm can âm huyết đều hư, đêm ngủ không yên, hồi hộp, chóng mặt, hoa mắt, thần trí không yên.

Gia giảm: Nếu người âm hư nội nhiệt, gia sinh địa 20g, bạch thược 14g, đơn bì 16g…. Nếu huyết ứ, gia đào nhân 12g.  Nếu khó ngủ, gia táo nhân 12g. Không chỉ định: người tâm can huyết không hư không dùng.

Chứng tâm thần không yên “tâm kinh” tim đập nhanh tăng huyết áp: dùng bài Sài hồ long cốt mẫu lệ thang gia giảm: sài hồ 12g, bán hạ 8g, phục linh 14g, quế chi 12g, nhân sâm 12g, long cốt 12g, mẫu lệ 12g, đại hoàng 6g, hoàng cầm 12g, cam thảo 4g, đại táo12g, sinh khương 12g. Cách dùng. Sắc uống. Công dụng: Ôn thông tâm dương, tiềm trấn, an thần… Trị tim đập mạnh, bồn chồn, mất ngủ, tăng huyết áp, trẻ em giật mình khóc đêm, tinh thần bất an, tim đập nhanh, mất ngủ... Ngoài ra còn chữa cảm mạo, viêm phổi, viêm túi mật, dạ dày, chứng mày đay, suyễn, tràng nhạc, viêm thận cấp tính, hư thận.

Gia giảm: Nếu người âm hư nội nhiệt, gia sinh địa 20g, đơn bì 16g… Nếu huyết ứ, gia đương quy 14g, đào nhân 12g. Nếu bụng đầy, gia trần bì 12g, chỉ xác 10g… Nếu lạnh, gia quế chi 12g. Không chỉ định: người mắc chứng tâm hỏa, nội nhiệt bứt rứt khó ngủ.

BS. Trúc Nguyên

Món ăn tốt cho bệnh tiểu đường, sỏi thận, đau dạ dày

Kê còn có tên tiểu mễ, cốc nha, là một món ăn trong 10 sở thích của người sống trường thọ. Chè kê, bánh đa kê, cháo kê thịt gà là đặc sản của nhiều địa phương. Kê có tác dụng lợi tiểu, ngừa sỏi thận, đái tháo đường và tiêu chảy; là lương thực tốt cho người đau dạ dày và mắc chứng khó tiêu, miệng hôi, tỳ vị hư nhược. Ngoài ra, kê còn là món ăn tốt cho người bị thấp khớp, làm dịu cơn đau do sinh đẻ.

Cơm kê là món ăn thích hợp cho người đái tháo đường.

Kê giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hóa. Hạt kê chứa hydrat carbon, protein, lipid, Ca, P, Fe, các loại đường, sinh tố nhóm B. Vị ngọt mặn, tính mát; vào tỳ, vị, thận. Kê có tác dụng kiện tỳ hòa vị, bổ thận thanh nhiệt. Dùng cho người tỳ vị hư nhiệt với các biểu hiện: nôn ói ra thức ăn (phản vị), đái tháo đường, tiêu chảy...

Cháo kê, khoai lang: kê 50g, khoai lang 60g. Khoai lang gọt vỏ thái lát; kê xay bỏ vỏ; nấu cháo. Ăn bữa sáng. Món này thích hợp cho người đái tháo đường tỳ vị hư nhược.

Cháo kê: kê 200g, bột mỳ 100g, trộn đều, nấu cháo. Ăn khi đói, ngày 2 lần. Món này tốt cho người cao tuổi, tỳ vị hư nhược, ăn không tiêu, người gầy, sút cân, phiền khát.

Cháo kê trúc diệp: kê 200g, đạm trúc diệp 40-60g thái nhỏ, nấu lấy nước bỏ bã. Kê nấu với nước đạm trúc diệp thành cháo. Món này tốt cho người say nóng, cảm nắng, hồi hộp kích ứng, tim đập mạnh, giật tay chân.

Cơm kê: kê được đồ hoặc nấu thành dạng cơm xôi, ăn hàng ngày, thích hợp cho người đái tháo đường.

Cháo kê đại táo: kê 200g, đại táo 10-12 quả nấu cháo thêm đường. Món này tốt cho người già, trẻ em rối loạn tiêu hóa, ăn kém, tiêu chảy, mỏi mệt.

Xôi kê: kê đã xát vỏ (lật mễ) 250g, nấu xôi kê hoặc cơm nếp. Món này tốt cho người suy nhược cơ thể, phụ nữ sau đẻ, bệnh mạn tính dài ngày, lao phổi, trẻ em suy dinh dưỡng.

Chè kê: kê 100-150g, đường phèn vừa đủ (50g). Kê xát vỏ, nấu cháo chín cho đường vào, đánh tan, đun sôi là được. Món này tốt cho người lao động hay phòng dục quá độ gây nên người hâm hấp nóng, ho, ra mồ hôi trộm, mất ngủ.

Cháo kê hà thủ ô: kê 50g, hà thủ ô 30g, trứng gà 2 quả. Kê nấu với hà thủ ô thành cháo, cháo được gắp bỏ bã thuốc, đập vào 2 cái trứng gà, cho thêm chút đường trắng khuấy đều, cho sôi là được. Cho ăn khi đói. Dùng cho người bị thoát vị, sa tử cung, sa dạ dày trực tràng.

Kiêng kỵ: Không ăn kèm với hạnh nhân để tránh gây nôn ói, tiêu chảy.

TS. Nguyễn Đức Quang

Chữa da khô sần, ngứa ngáy bằng món canh thịt vịt mướp đắngChữa da khô sần, ngứa ngáy bằng món canh thịt vịt mướp đắngNga bất thực thảo thông mũi, giảm đau đầuNga bất thực thảo thông mũi, giảm đau đầu8 bài thuốc dân gian chữa hôi nách8 bài thuốc dân gian chữa hôi nách

Mách bạn cách trị nước ăn chân bằng cây cỏ quanh nhà

Bệnh nước ăn chân thường xảy ra rất phổ biến sau khi địa phương bị ngập, lụt, một số người phải lội nước nhiều các kẽ chân bị bợt ra, có mảng trắng lép nhép, gây ngứa, dát, đau đớn khó chịu, bị nặng nhất thường ở kẽ thứ 3 thứ 4.

​Cây phèn đen.

Đề phòng nước ăn chân trước hết chúng ta cần giữ vệ sinh: rửa chân kỹ bằng nước sạch, đặc biệt chú ý các kẽ ngón chân không để bẩn và ẩm ướt. Khi thấy các kẽ ngón chân bị ngứa đỏ, không nên gãi nhiều, móng tay sắc và bẩn có thể làm sây xước chỗ ngứa, gây nhiễm khuẩn khó chữa thêm. Bạn đọc có thể áp dụng ngay một trong số những bài thuốc dưới đây để phòng và trị nước ăn chân:

Búp ổi cho thêm một nhúm muối giã nát, xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần.

Lá khoai lang giã với một nhúm muối, xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần.

Lá cây chút chít giã với một nhúm muối, xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần

Lá mướp non giã với một nhúm muối xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần.

Lá lốt đun nóng xông chân, rồi ngâm rửa chân.

Lá trầu không vò nát xát vào các kẽ ngón chân, hoặc lấy lá trầu không đun sôi với nửa lít nước để nguội, cho một cục phèn chua bằng đầu ngón tay cái đánh tan. Dùng nước này rửa kỹ các kẽ ngón chân bị loét, ngứa có thể kết hợp bôi thêm các loại thuốc mỡ sát khuẩn.

Búp ổi

Lá kim ngân 1 nắm, sắc đặc với nước rồi ngâm rửa chân. Mỗi ngày làm từ 2 - 3 lần.

Rau sam tươi 50 - 100g lấy phần cây trên mặt đất, rửa sạch, để ráo nước, cắt nhỏ, giã nát, thêm chút muối ăn, trộn đều, rồi cho tất cả vào mảnh vải gạc sạch, chấm nhẹ vào nơi tổn thương, khô lại chấm. Chỗ loét khô se lại và hết ngứa.

Cây cóc mẳn 50g, rửa sạch, để ráo nước, cắt nhỏ, giã nát, thêm chút muối ăn, trộn đều, rồi cho tất cả vào mảnh vải gạc sạch, chấm nhẹ vào nơi tổn thương, khô lại chấm và lấy bã thuốc nhét vào các kẽ chân băng lại. Mỗi ngày làm một lần đến chỗ đau khô lại.

Lá chè xanh và lá phèn đen, mỗi thứ 30g, nấu nước đặc, ngâm rửa chân trong 5 - 10 phút. Rồi lấy quả cà dại hoa trắng, lá lốt, mỗi thứ 20g, giã nát, thêm ít nước, dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ đau.

Thuốc rắc bột phèn chua, hoằng đằng (để dùng dần): phèn chua 20g, hoành đằng 100g, cho phèn chua vào một chiếc vỏ hộp, đun lên, phèn chua sẽ chảy ra thành nước. Tiếp tục đun cho đến khi phèn chua thành một chất trắng xốp là được, đem ra tán nhỏ. Hoàng đằng thái nhỏ, tán thành bột. Trộn đều lẫn 2 thứ bột, cho vào lọ sạch nút kín dùng dần bằng cách rắc bột này vào các kẽ ngón chân khi bị ngứa loét.

BS. Nguyễn Đức Kiệt

Gừng tươi - giải pháp cho chứng biếng ăn

Xử trí khi bị côn trùng cắn

Mùa hè là mùa của rất nhiều loại côn trùng sinh sôi, nảy nở. Theo BS. Hoàng Xuân Đại, nếu không may bạn bị côn trùng cắn mà không được cứu chữa kịp thời sẽ dễ gây thương tổn cho sức khỏe nhiều khi còn nguy hiểm đến tính mạng. Dân gian có những phương pháp trị liệu có thể xử trí ban đầu khi bị côn trùng cắn bằng những dược liệu tự kiếm tại chỗ khi chưa kịp chuyển nạn nhân tới các cơ sở y tế.

Trị ong đốt:

Ong ở nước ta có nhiều loại như ong muỗi, ong vàng, ong bò vẽ, ong đất, ong bò nâu, ong mật… Nhiều khi đang phát nương rẫy chạm vào tổ ong, nhất là có thêm mùi rượu càng làm ong tấn công mạnh. Do vậy khi bị ong tấn công cần tìm mọi cách để thoát khỏi khu vực có tổ ong. Nếu vẫn bị ong đốt có thể sử dụng một trong các cách sau đây.

- Dùng vôi tôi (vôi ăn trầu) bôi vào nơi ong đốt. Hoặc lấy hạt và lá quất hồng bì giã nhuyễn đắp vào vết ong đốt. Cũng có thể lấy củ ráy dại cắt ngang một lát mỏng xát vào chỗ ong đốt hoặc lấy lá, dây, củ cây chìa vôi giã nhuyễn đắp vào nơi ong đốt.

Rết cắn:

Dùng một trong các cách sau: lấy tỏi giã nát đắp vào nơi rết cắn rất nhanh khỏi đau nhức; Lấy rau sam rửa sạch giã nhỏ đắp vào vết thương. Lấy hạt vừng (mè) giã nhỏ đắp vào. Lấy củ cỏ gấu giã nhỏ đắp vào. Lấy lá bạc hà 1 nắm giã nhỏ đắp vào rất tốt. Lấy quả ngô ở ngọn cây giã nát đắp vào. Lấy hột mướp đắng (khổ qua) giã nhỏ cho vào mồm nuốt nước từ từ, sau đó bã đắp vào nơi rết cắn; hoặc dùng mướp đắng giã nát tẩm giấm đem đắp vào, cũng có thể ngậm nuốt nước từ từ rồi lấy bã đắp vào càng hiệu nghiệm. Dùng cọng khoai môn, tước bỏ vỏ, giã nhuyễn rồi trộn với cặn dầu dừa và vôi tôi đắp vào rất nhanh khỏi.

Ngoài ra lấy rau húng chanh (rau tần dày lá) rửa sạch giã nhuyễn trộn ít muối ăn đắp vào.

Tỏi chữa rết cắn rất hiệu quả.

Tỏi chữa rết cắn rất hiệu quả.

Ve cắn:

Không tự ý rứt nó ra vì như vậy răng ve sẽ gãy còn lại gây đau buốt thậm chí còn kéo theo rách xước cả da thịt. Vậy cần dùng một trong các cách sau nhằm làm con ve tự nhả ra. Đó là lấy nước điếu đặc chấm vào miệng ve, nó sẽ nhả ra rơi xuống. Cũng có thể lấy que thép nung nóng dí vào con ve nó cũng nhả ra và rơi xuống, sau đó lấy vôi tôi xát vào nơi ve cắn.

Trường hợp trót rứt con ve ra, răng ve gãy còn lại trong da thịt gây đau nhức phát sốt. Như vậy cần lấy thuốc lào tẩm nước điếu đặc rồi đắp vào nơi ve cắn băng giữ. Đồng thời dùng bài thuốc gồm ké đầu ngựa 20g, vòi voi 20g, cỏ chỉ thiên 20g, bồ công anh 40g, rửa sạch, sắc lấy nước đặc chia 2 lần uống trong ngày và dùng như vậy đến khi khỏi hẳn mới thôi.

Bọ nẹt và sâu róm:

Không may chạm da vào bọ nẹt hay sâu róm làm đau có thể sinh ngứa và tấy đỏ. Cần lấy ngay tóc rối xát vào nơi sâu róm chạm, hoặc lấy một nắm xôi hay cơm lăn đi lăn lại nhiều lần nơi da chạm vào nhằm làm lông của chúng dính hết vào cơm mà hết đau. Sau đó lấy rau má, rau khoai lang, khoai sọ mỗi thứ 1 nắm giã nhỏ mà xát vào chỗ ngứa. Cũng có thể bắt con bọ nẹt mổ lấy ruột xát vào nơi đau cũng khỏi.

Giời leo:

Viêm da do loại côn trùng này cần phân biệt với zona (là do virut). Biểu hiện thường thấy trên da có những mụn nhỏ li ti và đau rát. Kinh nghiệm dân gian lấy gạo sống 1 nắm giã nhỏ trộn ít nước vừa nhão đắp vào nơi đau. Khi gạo nơi đắp khô lại nhỏ them chút nước vo gạo vào. Cũng có thể lấy đậu xanh một nắm giã nhỏ trộn với nước cơm đắp vào, khi khô lại lấy nước cơm nhỏ vào cho đậu đắp không bị khô. Hoặc lấy lá xoan leo một nắm rửa sạch giã nhỏ đắp vào, khi khô cũng cần lấy nước cốt lá xoan leo nhỏ vào để thuốc luôn được ẩm.

BS. Hoàng Xuân Đại

Phương thuốc hỗ trợ sức khỏe người thường xuyên sử dụng máy tính

Gần đây các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, mỗi khi máy tính hoạt động khiến cho môi trường xung quanh không ngừng sinh ra ion dương và trung hòa ion âm trong không khí. Ion âm nhiều có lợi, còn ion dương nhiều lại có hại. Thời gian dài ở trong môi trường có nhiều ion dương thì những ion dương này sẽ thông qua hô hấp đi vào phổi, sau đó cùng với tuần hoàn máu đi đến mọi tế bào trong cơ thể, làm cho huyết dịch, dịch thể có nhiều tính axít, làm chậm chức năng trao đổi chất, làm cho độc tố tích tụ lại trong cơ thể, từ đó làm cho chúng ta mất ngủ, sức đề kháng giảm thấp, rối loạn nội bài tiết nhất là ở phụ nữ...

Bởi vậy hy vọng các phương thuốc dưới đây sẽ có công hiệu hỗ trợ sức khỏe cho những người hằng ngày vì công việc mà phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính.

Trà xanh hoa hòe, hoa cúc sáng mắt: Công hiệu: thanh nhiệt sáng mắt.

- Nguyên liệu: hoa cúc 3g, hoa hòe 3g, trà xanh 3g.

- Cách làm và sử dụng: Cho 3 nguyên liệu trên vào cốc, đổ nước sôi nóng vào ngâm 5 phút, uống thay trà hằng ngày.

Đỗ đen, bột quả óc chó trị khô mắt: Công hiệu: tăng cường cơ lực của mắt, tăng cường chức năng điều tiết, cải thiện chứng mắt mệt mỏi, chữa trị khô mắt.

- Nguyên liệu: đỗ đen 500g, nhân quả óc chó 500g.

- Cách làm và sử dụng: Cho đỗ đen vào chảo rang chín, chờ nguội nghiền thành bột. Nhân quả óc chó 500g, rang cho bóc lớp vỏ lụa bên ngoài, chờ nguội rồi nghiền sền sệt như bùn. Lấy mỗi loại một thìa hòa vào ly sữa nóng, thêm một thìa mật ong. Uống vào buổi sáng thức dậy hoặc sau bữa ăn sáng. Rất hiệu quả.

Ngân hoa, bạch chỉ trị viêm lợi: Công hiệu: Trị viêm lợi, đau nhức, sưng viêm...

- Nguyên liệu: ngân hoa 15g, bạch chỉ 6g.

- Cách làm và sử dụng: Cho nguyên liệu trên vào nước sắc lấy nước uống, mỗi ngày 1 thang. Kim ngân hoa sáng mắt: Công hiệu chặn gió, thanh nhiệt.

Có thể chữa trị các chứng đau nhức, sưng phù, mắt đỏ, nhiều nước mắt...

- Nguyên liệu: kim ngân hoa 10g, xa tiền diệp 10g, bạch chỉ 10g, lượng đường trắng thích hợp.

- Cách làm và sử dụng: Cho nước vào nấu cùng với các loại trên, sau đó thêm một ít đường, uống thay trà.

BS. HOÀNG XU N

Hành

Cổ xưa người ta đã coi hành là thứ thuốc tốt. Trong Đông y cho rằng, hành có tính cay ôn hòa, có tác dụng giải hàn, ôn thông dương khí, giải độc... Phần hành trắng là vị thuốc chính dùng chữa trị phong hàn cảm cúm.

Hành có nhiều tên gọi là hành hoa, hành củ, hành chăm... thường được dùng làm gia vị nấu trộn và khử tanh thức ăn. Khi dùng làm gia vị trộn lẫn, hành được cắt nhỏ hoặc đập nát để chiên xào tạo mùi thơm kích thích tiết dịch vị. Hành có thể trộn tươi, cũng có thể ép chiết thành dầu hành. Hành không chỉ là thứ thực phẩm gia vị như một thứ rau xanh mà còn là một thứ thực phẩm sức khỏe bổ dưỡng không thể thiếu trong những bữa ăn. Mùi vị hăng thơm của hành có tác dụng làm át mùi tanh, ngoài ra còn làm tăng thêm mùi vị thơm, có thể phân giải chất lòng trắng trứng thành pepton (một loại chất hữu cơ có thể kháng bệnh) nâng cao được khả năng hấp thu protein của cơ thể. Thức ăn có hành còn có tác dụng giải độc, thúc đẩy dạ dày và ruột tăng khả năng tiêu hóa thức ăn, bởi thế, hành được gọi là "thực phẩm gia vị sức khỏe".

Hành là một vị thuốc dễ kiếm, dễ sử dụng.

Chữa đau đầu, nghẹt mũi: Lấy 4-5 khía hành, 20g đậu xị nhạt, 20g gừng tươi đun sôi uống.

Người cảm mạo, tưa lưỡi dùng hành nấu canh cá chép làm món khai vị hỗ trợ bữa ăn ngon dễ tiêu.

Người đau dạ dày lấy 4 gốc hành giã nát đổ nước và chút đường đỏ đun làm nước uống, mỗi ngày uống 3 lần, uống đều trong một thời gian sẽ thấy chuyển biến.

Chữa tay chân tê dại bằng cách lấy 50g hành củ, 15g gừng, 3g hồ tiêu đun thành nước uống sẽ khỏi.

Để chữa thiếu sữa cho phụ nữ sinh con, lấy hành củ 2 cây, đương quy 10g, hoàng kỳ 15g đun lên thành nước thuốc uống.

Ngoài các phương pháp chữa trị kể trên, hành còn dùng ngoài chữa:

Đau bụng hoặc khó đi tiểu tiện thì nướng hành đắp vào rốn.

Người bị ung nhọt kiểu chuỗi ở cổ, lưng đau đớn thì lấy hành củ giã dập rồi trộn với mật ong đắp lên chỗ đau có tác dụng giải độc.

Người bị viêm mũi cấp hoặc mạn tính, trước hết dùng nước muối nhạt rửa mũi, sau đó bông que chấm nước củ hành ép lau bên trong hai lỗ mũi.

Để chữa trĩ, dùng lá hành đun sôi để nguội ngâm rửa hậu môn.

Đau viêm khớp lấy giấm chua trộn hành củ đập dập đắp.

Y học hiện đại đã chứng minh, hành ngoài chất protein, mỡ, đường các loại, vitamin các loại, chất đỏ cà rốt, axit carbonic, magiê, canxi còn có vị của tỏi, dầu thực vật, êtylen... Với những thành phần phong phú này, hành còn có thể ngăn ngừa chữa trị được các bệnh lỵ, bạch hầu, nấm, kích thích chức năng miễn dịch, nâng cao khả năng kháng bệnh trong cơ thể mỗi người. Bởi vậy, thường xuyên ăn hành làm thông hô hấp, trợ tiêu hóa. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, từ hành chiết lấy một chất đặc biệt ngăn ngừa được tế bào ung thư phát triển. Hành còn có thể làm nhuyễn phế quản, ngừa đông vón máu, ngăn ngừa tắc mạch, chống được bệnh về tim. Lâm sàng nghiên cứu khẳng định, người thường xuyên ăn hành các triệu chứng bệnh tim mạch như nghẽn mạch huyết quản, xơ vữa động mạch, bệnh van tim đều rất ít. Ngoài ra, nếu thường xuyên ăn hành sẽ ngăn ngừa được các loại bệnh đái tháo đường, viêm khớp, giảm nhẹ bệnh tăng huyết áp... Hành có nhiều tác dụng chữa bệnh, tăng cường sức khỏe như thế nên bữa ăn mỗi gia đình không thể thiếu hành. Miền Nghệ An, Hà Tĩnh có loại hành tăm, củ bé như hạt ngô là loại hành có giá trị cao nhất cả trong chữa bệnh và làm thực phẩm.

Hành có giá trị nhiều mặt như vậy, nên để có hành dùng trong suốt cả năm dài, cần biết cách bảo quản. Hành thích ẩm, nhiệt độ thấp. Khi thu hoạch xong buộc thành túm, để nơi mát mẻ khô ráo, xếp lá trên, củ dưới, không được tưới nước. Về mùa đông, khi hành bị đông cứng thì đừng va đập vào nó, cứ để nguyên hiện trạng, tự nó trở lại bình thường. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: "Hành không sợ khổ luyện, chỉ sợ va đập" là như thế.

BS. Xuân Lệ

Dược thiện cho người bị thiếu máu

Thiếu máu là một hội chứng bệnh lý thường gặp do nhiều nguyên nhân gây nên, được đặc trưng bởi tình trạng giảm thiểu các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu ở các mức độ khác nhau. Khi lâm vào hội chứng này, điều đầu tiên là phải xác định cho được nguyên nhân để có biện pháp xử lý căn bản và triệt để, đồng thời cần phải tích cực điều trị triệu chứng và nuôi dưỡng hợp lý nhằm đem lại sự hồi phục nhanh chóng nhất cho người bệnh.

Cây đương quy.

Trong y học cổ truyền, thiếu máu thuộc phạm vi các chứng hư lao, huyết chứng, nội thương phát nhiệt... Tùy theo các biểu hiện bệnh lý cụ thể mà được chia thành nhiều thể bệnh như khí trệ huyết ứ, khí huyết lưỡng hư, can thận âm hư, tỳ thận dương hư và thận âm dương lưỡng hư. Về mặt trị liệu, ngoài biện pháp dùng thuốc đơn thuần theo quan điểm "biện chứng luận trị", cổ nhân còn rất chú trọng sử dụng phối hợp dược phẩm và thực phẩm để tạo thành các món ăn - bài thuốc (dược thiện) nhằm mục đích điều trị hỗ trợ và duy trì một cách tích cực. Vài ví dụ cụ thể dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về vấn đề này.

Bài 1: Gan lợn 100g, vỏ lụa hạt lạc 50g, gạo nếp 50g, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Gan lợn làm sạch thái miếng, gạo nếp đãi kỹ ngâm qua, gừng thái chỉ, hành cắt đoạn. Cho gạo nếp và vỏ lạc vào nồi ninh thành cháo, sau đó bỏ gan lợn và gừng vào đun sôi chừng 10 phút là được, chế thêm gia vị, chia ăn nóng vài lần trong ngày. Công dụng: bổ huyết dưỡng huyết, dùng cho những trường hợp thiếu máu thuộc thể huyết hư biểu hiện bằng các triệu chứng như mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt nhiều, sắc mặt, môi, móng tay và lưỡi trắng nhợt, hay hồi hộp tức ngực, kinh nguyệt lượng ít sắc nhạt hoặc bế kinh... Trong bài, gan lợn có công năng bổ can dưỡng huyết, vỏ lạc hòa vị nhuận phế, bổ huyết chỉ huyết phối hợp với gạo nếp, gừng tươi để kiện tỳ ích vị, nâng cao năng lực hoạt động của hệ tiêu hóa và tạo cảm giác ngon miệng.

Bài 2: Sinh hoàng kỳ 20g, đương quy 10g, đẳng sâm 20g, thịt gà 100g, gừng tươi 15g, đại táo 10 quả. Thịt gà chặt miếng, gừng giã nát, các vị thuốc rửa sạch, tất cả cho vào nồi hầm nhỏ lửa chừng 2 giờ là được, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: bổ khí dưỡng huyết, dùng cho người thiếu máu thuộc thể khí huyết lưỡng hư biểu hiện bằng các triệu chứng như đầu choáng mắt hoa, tiếng nói nhỏ yếu, khó thở nhiều, dễ hồi hộp, hay chảy máu cam và chân răng, sắc mặt và niêm mạc nhợt nhạt, chất lưỡi nhợt, mạch nhanh nhỏ. Trong bài, hoàng kỳ là vị thuốc chính có công dụng đại bổ tỳ khí và phế khí, đương quy có tác dụng bổ huyết, hai vị phối hợp với nhau giúp cho khí và huyết đều được phục hồi, thúc đẩy quá trình tái tạo các tế bào máu.

Bài 3: Hà thủ ô 50g, trứng gà 2 quả, đường đỏ vừa đủ. Đầu tiên, cho hà thủ ô và trứng gà vào nồi đun nhỏ lửa trong 30 phút, sau đó lấy trứng ra bóc bỏ vỏ rồi lại cho vào đun tiếp khoảng 60 - 90 phút là được, chế thêm đường đỏ, ăn trứng uống nước trong ngày. Công dụng: bổ can thận, ích tinh huyết, dùng cho người bị thiếu máu thuộc thể can thận hư, biểu hiện bằng các triệu chứng như đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, lưng đau gối mỏi, giấc ngủ không sâu nhiều mộng mị, di mộng tinh, tiểu đêm nhiều lần, trí nhớ giảm sút, đại tiện táo kết hoặc khó đi... Trong bài, hà thủ ô vị ngọt đắng, tính ấm, có công dụng bổ can ích thận, tăng tinh dưỡng huyết; trứng gà vị ngọt tính bình có công dụng bổ huyết, dưỡng tâm an thần, tư âm nhuận táo. Hai vị phối hợp với nhau có đủ khả năng cải thiện hội chứng thiếu máu thuộc thể can thận hư suy. Tuy nhiên, vì trứng gà chứa nhiều cholesterol cho nên những người bị rối loạn lipid máu khi dùng bài này cần có sự hướng dẫn cụ thể của thầy thuốc chuyên khoa.

Củ đương quy.

Bài 4: Nhung hươu 5g, thịt gà 100g, gừng tươi 10g. Thịt gà làm sạch chặt miếng, nhung hươu thái phiến, gừng tươi giã nát. Cho thịt gà và gừng vào nồi ninh kỹ trong 60 phút, tiếp đó bỏ nhung hươu vào rồi đun tiếp trong 120 phút, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần. Công dụng: bổ thận dương, ích tinh dưỡng huyết, dùng cho người thiếu máu thuộc thể tỳ thận dương hư biểu hiện bằng các triệu chứng sợ lạnh, tay chân lạnh, gân cốt suy yếu, lưng đau gối mỏi, tiểu đêm nhiều lần, di tinh, hoạt tinh, liệt dương, xuất tinh sớm, khó thụ thai, mệt mỏi, đầu nặng mắt hoa, tai ù, sắc mặt nhợt nhạt, có thể có phù nhẹ chi dưới, đại tiện lỏng loãng... Trong bài, nhung hươu vị ngọt mặn, tính ấm, có công dụng ôn thận tráng dương, ích tinh tủy, bổ khí huyết; thịt gà vị ngọt, tính ấm, có công dụng ôn trung ích khí, bổ tinh dưỡng huyết. Hai vị phối hợp với nhau có tác dụng cải thiện tình trạng thiếu máu rất tốt. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh nhung hươu có khả năng thúc đẩy quá trình sản sinh hồng cầu và gia tăng lượng huyết sắc tố.

Bài 5: Tam thất 10g, thịt gà 150g, gừng tươi 10g. Thịt gà làm sạch chặt miếng nhỏ, tam thất thái phiến mỏng, gừng giã nát. Tất cả cho vào bát, chế đủ nước, đậy kín miệng rồi đem hấp cách thủy trong 2 giờ, nêm đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: hoạt huyết, dưỡng huyết, cầm máu, dùng cho người bị thiếu máu thuộc thể khí trệ huyết ứ, biểu hiện bằng các triệu chứng sắc mặt xám nhợt, hay bị xuất huyết dưới da, dễ chảy máu chân răng, chảy máu cam, phụ nữ kinh nguyệt không đều, thống kinh, kinh sắc tối và có máu cục, lưỡi có những điểm tím, toàn trạng mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt... Trong bài, tam thất vị ngọt đắng, tính ấm, có công dụng hoạt huyết tán ứ, làm thông huyết mạch, trừ huyết cũ sinh huyết mới và cầm máu; thịt gà ôn trung ích khí, bổ tinh dưỡng huyết. Hai vị phối hợp với nhau tạo nên công năng hoạt huyết dưỡng huyết độc đáo của bài thuốc.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Tản mạn chuyện “tình dược” ngày xuân

Ngày xuân, không thể thiếu rượu và việc uống rượu. Ðối với người Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, rượu không chỉ là một đồ uống thông dụng mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của không ít vùng miền. Tuy nhiên, rượu là thuốc và cũng là “tình dược” khi sử dụng với một lượng thích hợp.

Người xưa có câu: “Tửu vi bách dược chi trưởng” (rượu đứng đầu trăm thứ thuốc). Sách thuốc cổ cũng viết: “Tửu, thông huyết mạch, hậu tỳ vị, nhuận bì phu, tán thấp khí, hành dược thế, sát bách tà, chỉ đông thống, khước phong hàn”, nghĩa là: rượu có công dụng làm lưu thông huyết mạch, trợ giúp tỳ vị, làm da dẻ nhu nhuận, trừ phong thấp, dẫn thuốc, sát trùng, giảm đau và nâng cao năng lực chống lạnh. Về phương diện sức khỏe tình dục, người xưa vẫn thường gắn liền hai chữ “tửu” và “sắc” với nhau, điều đó phần nào nói lên công năng lợi “sắc” của rượu và rượu được gọi là “tình dược” (thuốc dùng cho tình dục). Theo dược học cổ truyền, vì có tính ấm vị cay nên rượu có tác dụng khởi dương, trợ dương, hưng dương và làm ôn thông kinh mạch rất có lợi cho sức khỏe tình dục. Đặc biệt là khi rượu được ngâm với các vị thuốc có công năng ôn thận bổ dương, tăng cường sinh lý như ba kích, nhục dung, dâm dương hoắc, tỏa dương, tiên mao, hải cẩu, ngẩu pín…

Lễ hội bia rượu và tình dục của người Ai Cập cổ.

Lễ hội bia rượu và tình dục của người Ai Cập cổ.

Rượu có xu hướng làm thoát trạng thái ức chế, làm giảm độ lo âu, bồn chồn khiến tâm trí con người có cảm giác lâng lâng dễ chịu, làm tăng mức độ tự tin và giúp vượt qua sự nhút nhát tự ti khi “động phòng”. Rượu mang tới cảm giác ấm áp, hạnh phúc và loại bỏ các ức chế trong cuộc sống, điều đó được coi như là một loại kích dục.

Ngoài ra, với một lượng nhất định rượu còn đẩy lùi tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt xuống mức thấp nhất và tăng khả năng yêu, dự phòng tình trạng xuất tinh sớm. Các chất có tác dụng chống lão hóa trong rượu vang đỏ như reveratrol còn làm tăng lượng hormon sinh dục nam, tăng lượng calci trong máu, nhờ đó mà chất lượng sinh hoạt tình dục được cải thiện.

Tuy nhiên, từ xưa đến nay, y học luôn luôn khẳng định: rượu chỉ thực sự có lợi cho sức khỏe nói chung và khả năng sinh hoạt tình dục nói riêng khi được dùng với một liều lượng thích hợp. Nếu lạm dụng với liều lớn và kéo dài, rượu sẽ làm ức chế hệ thần kinh trung ương nói riêng và các cơ quan tạng phủ khác nói chung, thậm chí có thể đưa đến mức tê liệt và vì thế năng lực tình dục cũng lâm vào trạng thái ức chế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trước hết, ở những người nghiện rượu thường lâm vào tình trạng suy giảm ham muốn tình dục, điều này có liên quan đến kích thích tình dục của cơ thể, bao gồm cả quá trình cung cấp máu cho các thể hang ở dương vật khi não bị ý niệm khiêu dâm kích thích. Hơn nữa, cơ thể không thể duy trì năng lực quan trọng cần thiết để hỗ trợ sự hấp thu oxy gia tăng trong lúc quan hệ tình dục.

Thứ đến, rượu là nguyên nhân thực thể gây liệt dương, xuất tinh sớm, xuất tinh khó, teo tinh hoàn…ở nam giới do làm giảm mức testosteron (hormon sinh dục nam có tác dụng duy trì đòi hỏi tình dục và kích thích tuyến tiền liệt, túi tinh bài xuất tinh dịch). Đồng thời, uống quá nhiều rượu một lúc hoặc nghiện rượu còn gây ức chế trung khu thần kinh, làm giảm sức khỏe trí não từ đó dẫn đến nhiều phiền toái cho đời sống tình dục.

Thêm nữa, rượu còn làm giảm độ nhạy cảm tình dục của cả nam giới và nữ giới. Nhiều đấng mày râu lạm dụng bia rượu mà không hề biết rằng thói quen xấu này có ảnh hưởng rất lớn đến con cái. Các nhà khoa học đã tiến hành lấy mẫu tinh trùng của những người đàn ông uống rượu thì thấy có đến 70% tinh trùng phát triển không bình thường do tác động của rượu cồn. Khi những tinh trùng này gặp trứng của người nữ và thụ thai sẽ làm tăng nguy cơ sảy thai. Đứa trẻ sinh ra tiềm ẩn nhiều nguy cơ bệnh tật và những đặc điểm bất thường về tâm sinh lý. Thậm chí nếu người mẹ uống rượu trong thời gian mang thai, đứa con đó có thể bị khuyết tật về trí tuệ. Cũng không ít nghiên cứu cho thấy, rượu có thể gây vô sinh nam do không đủ về số lượng tinh dịch, số lượng và chất lượng tinh trùng dẫn đến hiện tượng khó thụ thai, vô sinh, hiếm muộn. Đó là chưa kể quan hệ tình dục khi say rượu có thể gây nên những tổn thương về tinh thần cũng như thể chất, thậm chí có thể gây chứng “thượng mã phong” và đột tử.

Ở những phụ nữ nghiện rượu, nồng độ cồn trong máu tăng cao sẽ gây rối loạn nội tiết thể hiện bằng sự gia tăng tỷ lệ trị số giữa nội tiết tố nam và nội tiết tố nữ. Nội tiết tố nam có tác dụng khêu gợi ham muốn tình dục, khi nội tiết tố nữ tăng còn nội tiết tố nam giảm sẽ làm suy giảm ham muốn “chăn gối”. Ngoài ra, rượu còn gây hại đối với buồng trứng khiến cho lượng và tỷ lệ nội tiết tố tình dục mất cân bằng, từ đó dẫn đến suy giảm ham muốn tình dục, thậm chí gây rối loạn kinh nguyệt hoặc vô sinh. Có những nghiên cứu khảo sát trên phụ nữ nghiện rượu cho thấy, ở những nữ giới dưới 40 tuổi có tới 87% bị trục trặc về chức năng buồng trứng và dẫn đến những rối loạn tình dục và kinh nguyệt. Đó là chưa kể đến việc rượu còn làm giảm tiết dịch của âm đạo để bôi trơn trong khi quan hệ và gây khó khăn trong việc đạt được cực khoái hoặc đạt cực khoái không đầy đủ.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Những phương thuốc trị chứng tiêu chảy hiệu nghiệm

Có thể gom gọn trong 2 nhóm nguyên nhân chính gây nên chứng tiết tả:

Ngoại nhân: chủ yếu Phong, Hàn, Thấp, Thử tà xâm nhiễm gây nên làm tổn thương tính thăng giáng của tỳ vị.

Nội nhân: ăn uống không điều độ, không chừng mực, bừa bãi, hoặc ăn thức sống lạnh ôi thiu, hoặc ăn quá nhiều thứ ngon béo; nhân tố nội tại như tỳ vị đã hư yếu sẵn, ăn uống không điều hòa; dương khí ở tỳ thận suy kém không vận hóa nung nấu thức ăn được.

Hàn thấp

Triệu chứng:

- Đau bụng, sôi ruột, tiêu lỏng nhiều lần toàn nước trong loãng.

- Người nặng nề, mệt mỏi, không muốn ăn.

- Ớn lạnh, sợ gió, đau mình, nhức đầu.

- Lưỡi bệu rêu trắng.

- Mạch nhu hoãn (nếu thấp nhiều), mạch trầm trì (nếu hàn nhiều).

Pháp trị:

Nếu thấp nhiều: ôn trung, phân thanh trọc, lợi thủy thấp.

Phương dược: Vị linh tán (bao gồm Bình vị tán và Ngũ linh tán): thương truật, hậu phác, trần bì, cam thảo, trư linh, quế chi, trạch tả, bạch truật, phục linh. Ý nghĩa: Bình vị tán (thương truật, hậu phác, trần bì, cam thảo) để khử thấp hòa vị; Ngũ linh tán (trư linh, quế chi, trạch tả, phục linh) để hành khí lợi thủy.

Nếu Hàn nhiều: Ôn trung khứ hàn.

Phương dược: Lý trung thang (Thương Hàn luận): đảng sâm, bạch truật, can khương, cam thảo. Ý nghĩa: can khương để ôn trung tiêu khu lý hàn; đảng sâm để bổ khí giúp vận hóa; bạch truật để kiện tỳ táo thấp; cam thảo để ích khí hòa trung.

Thấp nhiệt

Triệu chứng:

- Phát sốt, khát, uống nước nhiều, thích uống nước lạnh.

- Lợm giọng, buồn nôn.

- Đau quặn bụng từng cơn, mỗi lần đau là mỗi lần đi tiêu chảy, tiêu chảy nhiều lần.

- Phân lỏng màu vàng, hôi thối, nóng như đốt ở hậu môn.

- Tiểu tiện ít.

- Lưỡi bệu rêu vàng bẩn.

- Mạch sác.

Pháp trị: thanh nhiệt lợi thấp chỉ tả

Phương dược: Cát căn cầm liên thang gia giảm: cát căn, hoàng liên, hoàng cầm, nhân trần, kim ngân hoa, hoắc hương.

Ý nghĩa: cát căn để giải biểu thanh nhiệt, nâng khí dương của tỳ vị để chỉ tả; hoàng liên, hoàng cầm để thanh nhiệt giải độc; hoắc hương hỗ trợ cát căn để chỉ tả; nhân trần để lý khí hòa huyết chỉ thống; cam thảo để hòa trung.

Thương thực

Triệu chứng:

- Đầy bụng, đau quặn từng cơn.

- Tiêu chảy phân lỏng hoặc có hòn rất hôi thối, như mùi trứng ung, hoặc mùi thức ăn không tiêu, đi tiêu xong bụng giảm đau.

- Ợ nhiều, ợ hơi và ợ chua.

- Ngực tức không khoan khoái.

- Trung tiện luôn luôn rất thối

- Rêu lưỡi vàng cáu bẩn.

- Mạch hoạt sác.

Pháp trị: Kiện tỳ tiêu thực chỉ tả.

Phương dược: bình vị tán gia vị: thương truật, trần bì, hậu phác, cam thảo, sơn tra, thần khúc. Ý nghĩa: thương truật, hậu phác, trần bì, cam thảo phối hợp để trừ thấp hòa vị; thần khúc, sơn tra để tiêu thực, tác dụng chung của bài thuốc là Tiêu thực đạo trệ.

Những phương thuốc trị chứng tiêu chảy hiệu nghiệmThương truật

Tỳ vị hư hàn

Triệu chứng:

- Lạnh bụng, sôi ruột, mệt mỏi không muốn ăn.

- Đau bụng âm ỉ, tiêu lỏng nhiều lần, phân sống.

- Sắc da nhợt nhạt.

- Đoản hơi.

- Chân tay mát lạnh.

- Lưỡi bệu nhợt, rêu trắng.

- Mạch vô lực.

Phép trị: Ôn trung tán hàn, kiện tỳ, chỉ tả.

Phương dược: Hương sa lục quân gia vị: mộc hương, sa nhân, trần bì, bán hạ chế, đảng sâm, phục linh, bạch truật, chích thảo, gừng lùi, hoàng đằng. Ý nghĩa: mộc hương, sa nhân để ôn trung tán hàn; trần bì, bán hạ hóa đờm ráo thấp; gừng lùi, hoàng đằng để chỉ tả; sâm, linh, truật, thảo để kiện tỳ bổ khí.

Tỳ thận dương hư

Triệu chứng:

- Người già lớn tuổi, mệt mỏi ù tai, đau lưng mỏi gối, ngũ canh tả.

- Đau bụng, sôi ruột, tiêu nhiều lần phân sống, đi cầu xong vẫn còn đau.

- Bụng dưới đau lạnh.

- Ăn không ngon miệng, thường xuyên ớn lạnh, chân tay và người lạnh.

- Lưỡi nhợt bệu, rêu trắng nhầy.

- Mạch trầm nhược.

Phép trị: ôn bổ Tỳ Thận dương, chỉ tả.

Phương dược: Tứ thần hoàn gia vị: nhục đậu khấu, phá cố chỉ, bạch truật, can khương, ngô thù du, ngũ vị tử, đại táo. Ý nghĩa: Phá cố chỉ để bổ mệnh môn, ích thổ; nhục đậu khấu để ôn tỳ sáp trường chỉ tả; ngô thù du để ôn tỳ, tán hàn, trừ thấp; ngũ vi tử để ôn sáp; sinh khương để tán hàn hành thủy; táo để dưỡng tỳ vị.

Nếu khí hư không cầm được tiêu chảy dùng bài thuốc trên gia thêm Phụ tử lý trung thang, hoặc bài Bát vị phối hợp với Tứ quân gia vị.

Những phương thuốc trị chứng tiêu chảy hiệu nghiệmTrạch tả

Can tỳ bất hòa

Triệu chứng:

- Khi có căng thẳng hoặc tình chí thất điều là có đi tiêu chảy.

- Bụng đầy đau, sôi ruột.

- Sườn đầy tức, căng, ợ hơi, ăn kém.

- Rêu lưỡi mỏng.

- Mạch huyền.

Pháp trị: điều hòa Can tỳ, chỉ tả.

Phương dược: Thống tả yếu phương (Cảnh nhạc toàn thư): phòng phong, bạch truật, trần bì, bạch thược. Ý nghĩa: Phòng phong để sơ can tỳ: bạch thược để dưỡng huyết tả can: trần bì để lý khí tỉnh tỳ, toàn bài có tác dụng điều hòa can tỳ, chỉ tả, chỉ thống.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Những vị thuốc từ ong mật

Mật ong

Còn gọi là phong mật, vị ngọt, tính bình, có công dụng bổ trung, nhuận phế trừ ho, nhuận tràng thông tiêu, chỉ thống giải độc, dùng để bổ dưỡng và chữa các chứng bệnh như ho, táo bón, viêm loét dạ dày - tá tràng, viêm loét miệng, bỏng, ngộ độc ô đầu... Một số ứng dụng thường dùng như sau:

- Ho do phế táo: mật ong 15g hòa với một lượng dầu vừng thích hợp uống hằng ngày.

- Táo bón, ho khan không có đờm: mật ong lượng vừa đủ uống với nước sôi mỗi ngày 2 lần sáng, chiều. Hoặc mật ong 15ml trộn với một thìa vừng đen giã nát uống với nước ấm, mỗi ngày một lần.

- Tăng huyết áp: vừng đen 50g rang thơm, giã nhỏ, hòa với 50g mật ong và chừng 200ml nước, chia uống 2 lần trong ngày.

- Viêm loét dạ dày – tá tràng: mật ong 100ml chưng cách thủy uống trước khi ăn, mỗi ngày 3 lần, dùng liên tục 2-3 tuần. Hoặc mật ong 10g, cam thảo sống 10g, trần bì 6g, nước 400ml, sắc cam thảo và trần bì với nước lấy 200ml rồi hòa mật ong chia uống 2-3 lần trong ngày.

- Viêm loét lưỡi miệng: mật ong một thìa, đại thanh diệp 15g, sắc lấy nước ngậm.

- Thiếu máu: mật ong 80g, chia uống 3 lần trong ngày.

- Nhọt độc, ung thũng: dùng mật ong trộn với hành củ giã nát đắp lên tổn thương.

- Ngộ độc ô đầu: mật ong uống nhiều lần, mỗi lần 1-4 thìa với nước ấm.

- Viêm gan: mật ong và sữa ong chúa lượng bằng nhau, uống mỗi ngày 20g, 20 ngày là một liệu trình, dùng liên tục 3 liệu trình.

- Bỏng: dùng mật ong bôi sẽ mau khỏi, mau lên da non.

- Trẻ em bị tưa lưỡi: dùng gạc sạch thấm mật ong, quấn vào ngón tay, thoa đi thoa lại miệng lưỡi nhiều lần.

vị thuốc từ ong mật

Sáp ong

Còn gọi là phong lạp, vị ngọt, hơi ấm, không độc, có tác dụng bổ dưỡng, tăng sức và kích thích tiêu hóa. Sáp ong được dùng để chữa trĩ ra máu (kết hợp với nha đam tử), ung nhọt (làm viên phèn phi nấu với sáp ong để uống), chữa bỏng (làm thuốc dán), chữa viêm họng, bí tiểu tiện (dùng sáp ong đốt thành than, tán nhỏ cho trẻ uống với sữa hoặc nước cơm với liều 4g trong một ngày), chữa băng huyết (dùng sáp ong 20g tán nhỏ uống với rượu hâm nóng). Có khi phối hợp với các vị thuốc khác, ví như dùng sáp ong nướng lên, xác ve sầu bỏ miệng và chân đem sao, hai thứ lượng bằng nhau, tán riêng, rây bột mịn rồi trộn đều, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g với rượu để chữa da khô, nóng và ngứa ngáy; dùng sáp ong 10g, rễ câu đằng 20g sao vàng, bồ kết 2 quả cả hạt sao giòn, đốt xông khói qua đường tai để chữa viêm tai; dùng sáp ong và nhựa thông lượng bằng nhau nấu cho tan rồi bôi vào đầu ngón chân, ngón tay chữa chín mé...

Phấn hoa, phấn ong, hương ong

Do ong mang về, vị ngọt, tính bình, có công dụng tư bổ cường tráng, ích khí dưỡng huyết, bổ thận điền tinh, được dùng làm thuốc bổ, nâng cao sức đề kháng cho những người bị suy nhược cơ thể, tâm tỳ hư suy, thận tinh bất túc, liệt dương, suy giảm khả năng tình dục, muộn con, đáo tháo đường, ung thư tuyến tiền liệt...

Sữa ong chúa

Còn gọi là phong nhũ, được coi là thuốc bổ dưỡng cao cấp, dùng cho người mới ốm dậy, người già yếu, trẻ em suy dinh dưỡng, phụ nữ sau khi sinh bị thiếu máu, ít sữa, kém ăn, mất ngủ, chữa các bệnh lý như thấp khớp, hen suyễn, sởi, tăng huyết áp, viêm gan virut, suy nhược thần kinh, liệt dương, Parkinson, nhiễm phóng xạ, tàn nhang, trứng cá, viêm da mủ, mụn nhọt...

Keo ong

Còn gọi là phong giao, là thuốc diệt khuẩn tự nhiên, làm tăng tác dụng của các thuốc kháng sinh và kích thích hệ miễn dịch. Dùng keo ong 40% tán nhỏ, trộn với dầu thực vật 60%, đun nhỏ lửa cho tan keo, để nguội, được dùng chữa các thể chàm, mụn nhọt, eczema... Keo ong cắt nhỏ cho vào 10% nước sôi để nguội, chưng cách thủy, khuấy đều bằng đũa tre cho tan keo, ngày dùng 3-4 lần, mỗi lần 30-40 giọt để chữa đau dạ dày. Ngoài ra, keo ong còn dùng dưới dạng xông hơi, viêm ngậm để điều trị các bệnh đường hô hấp như cúm, viêm họng, viêm phế quản...

Tầng ong

Còn gọi là phong phòng, vị mặn, tính bình, có độc, có công dụng thanh nhiệt giải độc, khứ phong tiêu thũng, sát khuẩn, được dùng để trị kinh giản, co giật, bệnh phong, nhũ ung, đinh độc, lao hạch, phong tý, trĩ, lỵ, liệt dương, mụn nhọt... Một số ứng dụng thường dùng như sau:

- Eczema: phong phòng và minh phàn lượng bằng nhau, minh phàn vi sao cho thật khô, tán nhỏ cùng với phong phòng rồi trộn với dầu vừng để làm thuốc bôi.

- Viêm loét, sưng nề lâu ngày: phong phòng sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2g với rượu.

- Ngứa, viêm da: (1) phong phòng sao cháy tán bột, trộn với mỡ lợn bôi. (2) phong phòng 10g, minh phàn 10g, xà sàng tử 30g, sắc kỹ lấy nước ngâm rửa chỗ tổn thương.

- Ho lâu ngày không dứt: phong phòng sao vàng, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 2-5g.

- Đau răng, viêm lợi: phong phòng 15g, tế tân 2g, nhũ hương 2g, tán bột, chấm vào tổn thương.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Chế độ ăn chữa tăng huyết ápChế độ ăn chữa tăng huyết ápBài thuốc hay từ mai ba baBài thuốc hay từ mai ba baNhững vị thuốc chữa tắc tia sữaNhững vị thuốc chữa tắc tia sữa

Bài thuốc trị bí tiểu

Thực chứng là do thấp nhiệt (viêm đường tiết niệu), ứ huyết (sỏi đường tiết niệu, sang chấn). Hư chứng là do công năng của thận bị giảm sút, không khí hóa được bàng quang hoặc do thân dịch giảm, thận âm hư, nước không xuống bàng quang để bài tiết ra ngoài. Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh:

Bí tiểu do nhiễm khuẩn đường tiết niệu (thấp nhiệt ở hạ tiêu): Người bệnh tiểu ít tiểu buốt rắt, khát nước, sốt, miệng đắng, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ, mạch sác. Phép chữa là thanh nhiệt lợi thấp. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Bát chính tán: mộc thông, xa tiền tử, cù mạch, sơn chi tử, biển súc, hoạt thạch mỗi vị 12g; chích cam thảo 6g, đại hoàng 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: vỏ núc nác, thạch hộc, quả dành dành mỗi vị 12g; rau má 20g. Sắc uống ngày 1 thang. Nếu nặng có thể 2 thang.

Bài 3: dành dành 7 quả, tỏi 1 củ. Giã nát đắp vào rốn.

Bí tiểu do sỏi đường tiết niệu, sang chấn: Người bệnh đau vùng hạ vị dữ dội, tiểu ra máu, có khi bí tiểu. Phép chữa là hoạt huyết lợi niệu. Dùng bài “Bát chính tán” thêm kim tiền thảo 40g, tam thất 4 - 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bí tiểu do thận hư không khí hóa được bàng quang: Người bệnh đi tiểu từng giọt không hết, rặn kém, nặng hơn thì bí tiểu, sắc mặt trắng nhợt, toàn thân yếu, lưng lạnh, lưng gối mỏi, sợ lạnh, mạch trầm tế. Phép chữa là ôn bổ thận dương (bổ thận ôn dương lợi khiếu). Dùng 1 trong các bài:

Bài 1: Hương nhung hoàn: xạ hương 0,4g; lộc nhung, trầm hương mỗi vị 4g; phụ tử chế, phá cố chỉ, nhục thung dung, thục địa, đương quy mỗi vị 12g. Tán bột làm viên uống ngày 5 - 10g.

Bài 2: thục địa, hoài sơn, ngưu tất, sa tiền tử mỗi vị 12g; sơn thù, phục linh, trạch tả, đan bì, phụ tử chế mỗi vị 8g; nhục quế 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Nếu kèm tỳ hư, người mệt, thở gấp, mệt mỏi, bỏ thục địa, thêm hoàng kỳ 12g, đẳng sâm 12g, thăng ma 4g.

Bài 3: cao ban long 20g; bông mã đề, rễ cỏ tranh mỗi vị 12g; nhục quế 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Lương y Đình Thuấn

Các bài thuốc trị sởi

Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, Đông y gọi chứng này là Ma chẩn, dịch tà phạm vào hai kinh Phế, Vị. Bệnh sởi thường bắt đầu với một cơn sốt nhẹ, kèm theo những triệu chứng như ho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng. Khoảng 2 - 3 ngày sau, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai. Những vết đỏ hơi ngứa này có thể lan dần xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân.

Bài viết này xin giới thiệu một số bài thuốc thường dùng trong từng giai đoạn tiến triển của bệnh. Bài thuốc dùng cho bệnh nhi trên 36 tháng tuổi và người lớn khi cơ thể không đủ miễn dịch với bệnh. Tùy theo độ tuổi mà gia giảm.

Ban sởi ở trẻ em thường nổi trên mặt, theo đường tóc và sau tai.

Thời kỳ khởi phát: Sốt nhẹ hoặc vừa, sau sốt cao, tắc mũi, chảy nước mũi, hắt hơi, sưng nề mi mắt. Trên da phát ban, đó là các hạt trắng, nhỏ như đầu đinh ghim, từ vài nốt đến vài chục nốt, mọc ở niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm…).

Pháp điều trị: thấu chẩn (thúc sởi mọc), tán phong, thanh nhiệt.

Bài 1: tang diệp 5g, đạm đậu xị 5g, bạc hà 2g, liên kiều 5g, cam thảo 2g, thuyền thoái 2g, sơn chi 2g, cúc hoa 3g, lô căn 6g. Sắc uống.

Bài 2: tiền hồ 3g, kinh giới 3g, liên kiều 6g, bạc hà 3g, cúc hoa 3g, ngưu bàng tử 6g, kim ngân hoa 9g, thuyền thoái 2g, tang diệp 5g, lô căn 9g. Sắc uống.

Bài 3: thăng ma 10g, cát căn 10g, hoàng cầm 10g, cam thảo đất 6g, bạch chỉ 6g, mạch môn 6g, sài hồ 4g, kinh giới 6g, bạc hà diệp 1 nắm, gừng tươi 3 lát. Sắc uống.

Thời kỳ sởi mọc: ban mọc dát sần, ban nhỏ hơi nổi gờ trên mặt da, giữa các ban là khoảng da lành. Ban mọc rải rác hay dính liền với nhau thành từng đám tròn 3 - 6mm. Ban mọc theo thứ tự: mọc ở sau tai, lan ra mặt, lan xuống đến ngực, tay, lan đến lưng, chân. Khi ban bắt đầu mọc, toàn thân sốt cao hơn, mệt hơn. Khi ban mọc đến chân, nhiệt độ cơ thể giảm dần (hạ sốt).

Pháp điều trị: tuyên phế, thấu chẩn, giải độc, thanh nhiệt, lương huyết, hoạt huyết và dưỡng âm.

Bài 1: thuyền thoái 3g, liên kiều 10g, kinh giới tuệ 3g, tử thảo 3g, bạc hà 3g, đào nhân 3g, bối mẫu 6g, kim ngân hoa 10g, thiên hoa phấn 6g, lô căn 12g, mạch môn đông 10g, hạnh nhân 3g. Sắc uống.

Bài 2: qua lâu nhân 6g, bối mẫu 6g, sa sâm 6g, sinh thạch cao 10g, bạch mao căn 9g, tỳ bà diệp 6g, hạnh nhân 3g, tri mẫu 6g, hoàng cầm 6g, lô căn 9g. Sắc uống.

Bài 3: kim ngân hoa 6g, rễ chàm mèo 6g, rễ lau tươi 9g, cam thảo 3g, ma hoàng 2g, hạnh nhân 4g, ngưu bàng tử 2g, sinh thạch cao 12g .

Thời kỳ sởi bay: ban bay theo thứ tự từ mặt đến thân mình và chân, để lại các nốt thâm có tróc da mỏng kiểu bụi như vảy cám.

Pháp điều trị: dưỡng âm, sinh tân, thanh giải tà độc.

Bài 1: sa sâm 10g, tang diệp 3g, thạch cao 4g, lô căn tươi 15g, mạch môn đông 10g, thiên hoa phấn 10g, sinh biển đậu 10g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 2: sa sâm 10g, thiên hoa phấn 10g, hạnh nhân 3g, tỳ bà diệp 6g, mạch môn đông 10g, bối mẫu 4g, cam thảo 4g, địa cốt bì 6g. Sắc uống

Bài 3: huyền sâm 6g, sinh địa hoàng 6g, ma hoàng 1,5g, sơn chi tử 5g, đại thanh diệp 6g, mạch môn đông 9g, tri mẫu 6g, lô căn tươi 10g. Sắc uống.

BS. Phạm Đức Dương

Quan quế thuốc ôn thận tráng dương

Quan quế được dùng cho các trường hợp tỳ thận dương hư sợ lạnh, tay chân lạnh, đau bụng tiêu chảy, liệt dương di tinh di niệu, thống kinh do hàn thấp, phong hàn thấp tý, khí huyết hư, cơ thể suy nhược, mạch tay chân lạnh, các vết thương phẫu thuật mụn nhọt để lại những chỗ rò dai dẳng... Liều dùng: 2 - 6g.

Bài thuốc có nhục quế

Ấm thận bổ hỏa. Dùng cho người thận dương hư nhược, chân tay lạnh, mạch yếu, tỳ vị hư hàn, bụng lạnh, đi tả lâu ngày.

Bài 1: Đơn tam khí: nhục quế 4g, lưu hoàng 4g, hắc phụ tử 12g, can khương 6g, chu sa 1,5g. Tất cả nghiền mịn, làm hoàn, lấy chu sa làm áo. Mỗi lần 4g, ngày 2 lần, uống với nước. Trị nôn nhiều, tiêu chảy nhiều gây quyết nghịch hư thoát.

Bài 2: Hoàn quế linh: nhục quế 4g, mộc hương 4g, can khương 6g, nhục đậu khấu 12g, phụ tử 12g, đinh hương 4g, phục linh 8g. Các vị nghiền mịn, làm hoàn. Mỗi lần 12g, ngày 2 - 3 lần, uống với nước. Trị đau bụng đi ngoài do tỳ thận dương hư.

Ấm thận, hành thủy. Dùng bài Hoàn Tế sinh thuận khí: địa hoàng sấy 20g, sơn dược 16g, sơn thù du 8g, phục linh 12g, đơn bì 12g, trạch tả 12g, nhục quế 6g, phụ tử 12g, ngưu tất 12g, xa tiền tử 20g. Tất cả nghiền mịn, làm mật hoàn. Mỗi lần 20g, ngày 2 - 3 lần, uống với nước. Trị phù thũng viêm thận mạn tính, khí dương hư yếu, ớn rét, lạnh chân tay, tiểu khó, chân phù.

Nhục quế (hay quan quế) có tác dụng ôn thận tráng dương, thông kinh mạch.

Nhục quế (hay quan quế) có tác dụng ôn thận tráng dương, thông kinh mạch.

Trừ hàn giảm đau:

Bài 1: nhục quế tán bột, mỗi lần 4g, uống với rượu mùi. Trị dạ dày lạnh, bụng đau, ruột sa đau, phụ nữ huyết hàn đau khi có kinh.

Bài 2: Nước sắc lý âm: thục địa 16g, đương quy 12g, nhục quế 6g, can khương 6g, cam thảo 4g. Sắc uống. Dùng cho phụ nữ đau bụng kinh do hư hàn.

Dược thiện có nhục quế:

Bò kho cam thảo nhục quế: thịt bò 500g, cam thảo 10g, nhục quế 12g. Thịt bò thái thành lát mỏng bỏ trong nồi nước đang sôi, cho muối, gia vị đại hồi, gừng lát và nhục quế, ít đường và ít dầu trộn sa lát, thêm nước canh thịt bò. Đun nhỏ lửa trong 4 - 6 giờ cho đến khi cạn nước là được, bắc ra lấy bỏ bã thuốc, ăn vào các bữa ăn. Dùng tốt cho người suy nhược, thiểu dưỡng gây phù.

Gan gà hấp nhục quế: gan gà 1 bộ thái lát, bột nhục quế 1g (rắc trộn vào gan gà), đem hầm chín, thêm chút mắm gia vị cho ăn. Dùng tốt cho trẻ em di niệu đái dầm.

Cháo thục địa nhục quế: nhục quế (tán bột mịn) 3g, thục địa 10g, rau hẹ tươi 30g, gạo tẻ 60 - 80g. Gạo, thục địa, nhục quế nấu thành cháo loãng. Khi cháo được cho rau hẹ và chút muối gia vị. Dùng tốt cho người đái tháo đường, di niệu, u xơ tiền liệt tuyến.

Cháo nhục quế đậu đỏ: nhục quế 10g (đập vụn), đậu đỏ nhỏ hạt 30g, gạo tẻ 60 - 80g, nấu cháo. Thích hợp cho nam giới u xơ tuyến tiền liệt. Ngày ăn 1 lần, đợt dùng 10 ngày.

Cháo dâm dương hoắc nhục quế: dâm dương hoắc 30g, nhục quế 10g, gạo tẻ 50 - 80g. Dược liệu sắc lấy nước, nấu với gạo thành cháo, cho ăn vào buổi sáng và chiều tối khi đói. Dùng tốt cho người suy tuyến giáp.

Cháo nhục quế rễ hẹ: nhục quế (đập giập) 2g, gốc rễ hẹ tươi 100g, gạo tẻ 60g nấu cháo. Khi ăn cho thêm đường. Ngày nấu 1 lần, chia ăn sáng và tối (khi ăn để nóng). Đợt dùng 5 - 7 ngày. Dùng cho phụ nữ bế kinh do hàn thấp hư nhược.

Kiêng kỵ: Phụ nữ có thai hoặc người âm hư dương thịnh kiêng dùng.

BS. Tiểu Lan

Bài thuốc trị chứng thống kinh

Do can uất khí trệ, huyết ra không thông

Trước khi hành kinh hoặc khi đang hành kinh bụng dưới nặng trệ, đau, lượng kinh có thể nhiều, có thể ít, màu kinh tía tối, có hòn cục, hai mạng sườn đau, hai bầu vú căng trướng, mạch huyền.

Điều trị: lý khí hoạt huyết, giải uất chỉ thống.

Bài thuốc “Tiêu thống phương”: sài hồ 6g, huyền hồ sách 12g, bạch thược 12g, khổ luyện tử (hạt xoan rừng) 12g, đương quy 12g, hương phụ (chế) 12g, ngũ linh chi 12g, uất kim 8g, bồ hoàng 12g. Gia giảm: Nếu kinh nguyệt đến trước kỳ, lượng kinh ra nhiều, màu đỏ gia đan bì 8g, hắc chi tử 8g, xuyến thảo 8g, hoàng cầm 6g. Nếu kinh ra có huyết cục, màu đỏ thẫm, gia đan sâm 12g, trạch lan (lá mần tưới) 12g. Nếu bụng trướng đầy, lạnh mà đau, gia: ngô thù du 6g, quế chi 8g, sài hồ giảm xuống 3g, uất kim giảm xuống 6g. Nếu trước khi hành kinh hai bầu vú trướng đau gia, thanh bì 6g, quất diệp 6g, quất hạch 4g.

Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn hoặc lúc đói.

Trường hợp bụng đau nhiều, huyết ra có nhiều hòn cục

Điều trị: sơ can lý khí, hành huyết chỉ thống.

Bài thuốc “Thư can lý khí hoạt huyết thang”: đương quy 12g, ô dược 10g, xuyên khung (sao) 6g, trần bì 12g, huyền hồ sách (sao dấm) 10g, đảng sâm 15g, bạch thược (sao dấm) 15g, hương phụ (sao dấm) 10g, sài hồ 10g, trước khi hành kinh 7 ngày có hiện tượng đau tức hai mạng sườn, hai bầu vú căng trướng thì trước đó 3 ngày cho uống bài thuốc này. Hoặc có hiện tượng hàn tích huyết ứ đau bụng dưới trướng đầy, trước khi hành kinh 10 ngày cho uống bài này. Nếu có hiện tượng khí trệ huyết ứ sau khi sạch kinh 3 ngày cho uống cả chu kỳ kinh.

Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống lúc đói.

Bài thuốc trị chứng thống kinhVị thuốc huyền hồ sách chữa các bệnh đau bụng do khí huyết ngưng trệ.

Do khí trệ huyết ứ lâu ngày sinh chứng thống kinh

Triệu chứng: Khi hành kinh huyết ra nhiều có huyết cục màu đen, bụng đau dữ dội. Điều trị: hành khí phá huyết thông kinh chỉ thống.

Bài thuốc “Hoạt huyết tán ứ thang”: đương quy vĩ 12g, đan bì 8g, lưu ký nô 12g, tô mộc 12g, ô dược 12g, xích thược 12g, huyền hồ sách 12g, xuyên khung 8g, nhục quế 6g, sinh địa 8g.

Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Thống kinh có kiêm chứng âm hư huyết nhiệt

Điều trị: điều lý can (gan) khí, hoạt huyết hóa ứ, dục âm lương huyết.

Bài thuốc “Lý khí hóa ứ thang”: thích tật lê 18g, nữ trinh tử, phúc bồn tử, hạn liên thảo đều 24g, đương quy, xuyến thảo, câu đằng, sinh bồ hoàng, sinh địa, huyền hồ sách, ngũ linh chi, giá trùng đều 10g, giới bạch, sinh bạch thược đều 12g, xuyên khung, tân lang, thủy điệt đều 6g.

Cách dùng: Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn. Hoặc tán bột làm viên hoàn mật ong mỗi viên 5g, ngày uống 3 lần mỗi lần uống 2 viên trước khi ăn, uống với nước đun sôi để ấm.

Do hàn ngưng tụ sinh chứng đau bụng khi hành kinh

Triệu chứng: bụng dưới lạnh đau dữ dội kinh ra hòn cục màu đen. Điều trị: hoạt huyết hóa ứ hành khí giảm đau.

Bài thuốc “Điền thất thống kinh giao”: tam thất bột 12g, ngũ linh chi (sao dấm) 12g, xuyên khung 8g, tiểu hồi hương 12g, bồ hoàng 12g, huyền hồ sách 12g, mộc hương 6g, đại mạch 12g. Các vị thuốc trên tán bột mịn, ngày uống 3 lần mỗi lần uống 10g với nước đun sôi để ấm.

Do dương hư âm thịnh khí huyết ngưng tụ sinh chứng thống kinh

Triệu chứng: Kỳ kinh đến muộn, lượng kinh ra ít, bụng đau dữ dội, tay chân lạnh, sắc mặt không tươi, có trường hợp nôn mửa, tự ra mồ hôi, mạch trầm khẩn.

Điều trị: Ôn dương khu hàn hoạt huyết hóa ứ điều kinh chỉ thống.

Bài thuốc “Hàn ngưng thống kinh nghiệm phương”: phụ tử chế 6g, ngô thù du 5g, can khương 6g, sinh cam thảo 5g, tế tân 3g, xuyên khung (sao) 10g, nhục quế 5g, hồ lô ba 12g, ngải diệp 5g, bổ cốt chỉ 12g, đương quy (sao) 12g. Gia giảm: Nếu bệnh nhân không nôn mửa, bụng dưới trướng đau, bỏ ngô thù du, can khương, gia tiểu hồi hương 5g, tân lang 12g. Nếu hàn kết nặng đau lâu ngày không khỏi gia xuyên ô (chế) 5g.

Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Do trung tiêu hư hàn, làm khí ngưng huyết trệ thống kinh

Triệu chứng: Khi hành kinh bụng đau, trướng đầy, mỏi lưng, ăn kém, nôn mửa, lượng kinh ra ít, mạch huyền tế.

Điều trị: Ôn trung điều lý hoạt huyết thông khí, giảm đau thông kinh.

Bài thuốc “Ôn trung điều lý phương”: Can khương 5g, hồng hoa 15g, một dược 10g, huyền hồ sách 30g, nhũ hương 10g, nhục quế 6g, hương phụ (chế) 12g, hậu phác 10g, tam lăng 10g, ích mẫu 30g, mộc hương 9g, ô dược 10g, trầm hương 10g, chỉ thực 9g, xuyên khung 9g, nga truật 10g, đào nhân 10g.

Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

TTND.BS: Nguyễn Xuân Hướng